Đề bài: Phân tích tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu

“Trên trời có những vì sao sáng lạ thường… mắt ta phải chăm chú mới thấy, càng nhìn càng thấy sáng” là lời nhận xét của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về sự kiện. Đời và thơ Đồ Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ bị mù nhưng tâm luôn sáng. Nhắc đến ông, người ta không quên nhắc đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất cho thể loại văn tế, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Tác phẩm thể hiện lòng biết ơn, cảm thương, ngưỡng mộ của tác giả đối với những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc anh dũng, dũng cảm đã xả thân vì nước. Để phân tích văn bản một cách toàn diện và đặc sắc nhất, chúng tôi chọn con mắt và điểm nhìn từ tinh thần yêu nước của những người nghĩa sĩ nông dân.

Những người nông dân vốn là những người nông dân chất phác, nhưng nay vì lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, họ đã trở thành những chiến sĩ anh dũng hi sinh trong trận Rằm tháng 11 năm 1861 _ thời gian khó khăn của những ngày đầu chống Pháp.

Tại sao lại như vậy? Bởi “Súng chống đất gầm; Lòng dân tiết lộ” hai câu tứ tuyệt tuy ngắn gọn nhưng đã khái quát được hoàn cảnh, tình hình đất nước lúc bấy giờ. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, xâm lược và thực hiện chính sách đàn áp và sự bóc lột đã đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng cực.Câu nói trên đã cho ta thấy sự man rợ của bọn thực dân.Chúng có vũ khí tối tân,sức tàn phá khốc liệt,súng nổ vang trời.Điều đó nhắc chúng ta nhớ đến tội ác của giặc Pháp được nhà thơ tố cáo trong bài “Chạy giặc”:

“Chợ tan rồi nghe tiếng súng Tây

Một bàn cờ đã sụp đổ sau một phút

Ra khỏi nhà, lũ trẻ bỏ chạy

Mất tổ sóc bay

Bến Nghé trước cửa tan bọt nước

Tranh ngói Đồng Nai nhuốm mây”

Tiếng súng vô tình của địch không bỏ sót một ai, không trừ một cảnh tượng nào. Mọi thứ trở nên hoang tàn, tồi tàn, hỗn loạn sau “tiếng súng Tây”. Địch hiện đại hơn ta rất nhiều về trang bị, vật chất, quân số, nhưng ta chỉ có một lòng, truyền thống yêu nước quật cường của nông dân, của dân tộc Việt Nam. . Nghệ thuật đối lập tiểu đối đã được vận dụng rất thành công rất chính xác, rất chuẩn mực: Mười năm một trận, công (vật chất) nghĩa (tinh thần), chưa hẳn đã nổi tiếng tuy đã mất tiếng tăm. vang lên như tiếng la đã khẳng định tinh thần quyết tâm đánh giặc, làm cơ sở cho nông dân xuất hiện. Tiếng kêu “ôi chao” quen thuộc mở đầu buổi học. Tiếng khóc lớn thể hiện sự tiếc thương, tiếc thương cho hương hồn các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh.

Xem thêm bài viết hay:  Tả cảnh đường phố khi trời mưa (Dàn ý – 3 mẫu) – Tập làm văn lớp 5

Nhà thơ đã gợi lại và khắc họa hình ảnh những người nông dân anh hùng nghĩa sĩ Cần Giuộc_những người nông dân chân chất miền quê có tinh thần yêu nước mãnh liệt với câu “Tưởng nhớ khí xưa”. Trước hết, họ là những người làm ruộng, làm nông, lam lũ để kiếm sống. “Lặng lẽ làm ăn, lo nghèo khó” đúng như Hoài Thanh đã nhận xét “Một chữ cút biết bao nhiêu tình”. Nhà thơ bày tỏ niềm thương cảm với người hiền lành mà dáng vẻ lầm lì, lầm lũi. Họ là những người chất phác, thuần nông, ngoài công việc đồng áng “chỉ biết ruộng trâu”, không gian giao tiếp hạn chế “ở làng quê” với những công việc của người nông dân “Cày, cày, bừa, v.v… tay cấy đã quen làm”. .Họ biết bao nhiêu về những binh đao, giáo mác “Chưa quen cung ngựa, lấy đâu ra trường nhung” và “luyện khiên, tập súng, tập mác, tập cờ chưa từng thấy”. còn nhiều ẩn số, nhưng khi kẻ thù xâm lược, quấy phá, chống cự yếu ớt, các anh dũng cảm bỗng trở thành những anh hùng liệt sĩ cứu nước.

Ban đầu họ cũng trông đợi vào một cuộc phản công từ triều đình. Nhưng trước tình thế nguy cấp, triều đình bạc nhược lại để cho thần dân kêu lên “Hơn mười tháng nghe gió hạc bay, trời như nắng hạn mà mưa”. Điển tích “tiếng hạc kêu” được trích từ câu “Gió khan hạc, thảo quân thảo” để chỉ sự lo lắng, hồi hộp, sợ hãi trước sự tấn công hung bạo của quân thù. Làm con chỉ biết mong cha mẹ, mong đất nước thanh bình để yên bề gia thất, nhưng cũng chỉ biết mòn mỏi chờ đợi mười tháng trời. Và tất nhiên họ không thể mở mắt nhìn đất nước rơi vào tay giặc. Trước đó, người ta chỉ ghét chúng vì “mùi hồ bột chiên” chỉ là mùi tanh của giặc Pháp với hình ảnh so sánh rất độc đáo “ghét thói tiểu nhân như nhà nông ghét cỏ”. Đó là một lý do tự nhiên. Cách dùng từ rất trong sáng, phù hợp với tâm lý và suy nghĩ của người nông dân. Lòng căm thù càng được đẩy lên cao độ khi “tôi thấy bong bóng bọc chiếc lốp trắng”, “Ngày nhìn ống khói chạy đen ngòm” mà “muốn ăn gan”, “muốn cắn vào cổ”. Nỗi đau đến tận cùng, sự căm ghét đến cùng cực phải đến câu tiếp theo mới lên đến đỉnh điểm: “Một mối trời ơi, ai chặt rắn đuổi hươu; Hai mặt trời và mặt trăng sáng như vậy, làm gì có chuyện treo dê bán chó.” Truyền thống, điển tích, từ Hán Việt, đặc biệt là thành ngữ “treo đầu dê bán chó” đều được tập trung thể hiện ý chí đấu tranh chống đế quốc. kẻ thù, con mắt tinh tường của nhân dân.Bộ mặt “khai hóa”, “truyền đạo” của giặc Pháp bị vạch trần, vạch trần dã tâm cướp nước ta.

Xem thêm bài viết hay:  Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều năm 2021 (dàn ý – 5 mẫu)

Truyền thống và tinh thần dân tộc cùng với tội ác của giặc Pháp đã thôi thúc họ đứng lên đấu tranh bằng tất cả trái tim của người Việt Nam. Các nhà thơ ấn tượng về tinh thần và công việc của họ, điều này hoàn toàn trái ngược với sức mạnh của người nông dân. Chúng không đợi ai kêu ai bắt mà tự nguyện chiến đấu “lần này ra sức phá trận, không thèm trốn chui trốn nhủi, lần này sẽ lên hổ báo” một loạt vị ngữ hành động. động từ thể hiện quyết tâm chiến đấu. rộng mở, hào hùng tiếp nối tinh thần Đông A của thời Trần. Họ “rũ bỏ bùn đứng dậy” chiến đấu khi trong tay là những vật dụng thô sơ, là những công cụ lao động hàng ngày của người nông dân như quần áo vải, ngọn tre, cung rơm, lưỡi xay… Họ không thuộc dòng dõi quân tử, có không được huấn luyện, không có tổ chức, không có điều lệnh, đội ngũ, kỷ luật và vũ khí thô sơ. Chính những cái “không” ấy đã làm nổi bật cái “có” vô giá ẩn chứa trong con người Cần Giuộc. Vì họ có ý thức quyết tâm đánh giặc, có tinh thần yêu nước thường trực, có lòng căm thù giặc vô hạn. Chính điều đó đã tạo nên sức mạnh vô song để họ đạp hàng rào mà xông tới, coi địch cũng như không, không sợ đạn lớn đạn nhỏ, mà liều mạng lao vào như không, thì người kẻ nọ đâm chém, kẻ kia chém ngược khiến quân giặc khiếp sợ. sợ hãi. Giọng điệu hùng hồn, sục sôi qua các lần ngắt nhịp, nhịp điệu nhanh, dồn dập cùng với các động từ mạnh “bước rào”, “đập cửa vào”, “đập tới đập lui” và giọng điệu chắc nịch. .

Nỗi tiếc thương của nhà thơ đối với những nghĩa sĩ đã khuất được thể hiện qua câu mở đầu “Thương thay” ở đoạn ba. Khi kết thúc, chữ “Ôi” xuất hiện diễn tả lòng thương xót và lời cầu nguyện của linh mục. Giọng điệu thê lương rơi xuống hố đau. Tác giả cảm thương cho những con người phải lao tâm khổ tứ “ăn tuyết nằm xương” để “rơi mưa rơi gió”. Ông khẳng định quyết tâm của dân tộc thà “về với tổ tiên mà vinh quy” chứ không cúi mình làm nô lệ. Đằng sau tiếng khóc oang oang, thê lương ấy là tâm tư, nguyện vọng của tác giả. Ông mong cho đất nước được thái bình, cho dân đen thoát nghèo khổ, cho dân tộc không còn quân thù. Dù bị mù không thể ra trận nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn cùng các thủ lĩnh nghĩa quân họp bàn kế sách đánh giặc. Khi giặc vào chiếm Nam Kỳ, ông ở lại Ba Tri, chúng ra sức dụ dỗ, mua chuộc nhưng con người kiên trung ấy đã từ chối, một lòng một dạ với nước.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn tế thành công nhất của văn tế Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn đã có những đóng góp mới cho nền văn học nước nhà cùng với nghệ thuật đắt giá được vận dụng nhuần nhuyễn. Thứ nhất, những đóng góp mới: hình tượng người nông dân Việt Nam lần đầu tiên đi vào văn học bằng những nét bình dị nhất với cử chỉ, dáng vẻ, tính cách, tình cảm, tình cảm rõ nét. Đề tài gắn liền với thực tế hiện tại của đất nước lúc bấy giờ. Đáng chú ý là sự chuyển dịch hệ tư tưởng trung dung theo hướng tăng tính hiện thực, giảm “vũ khí” lý tưởng. Tác phẩm đã biến văn học giai đoạn này thành vũ khí đấu tranh chống giặc, chống tư tưởng đầu hàng và phản động tay sai bán nước. Thứ hai là những thủ pháp nghệ thuật đắt giá được vận dụng thành công. Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát có vần, có vận mệnh độc đáo. Ngôn từ diễn đạt trực tiếp, gọi tên các trạng thái đa dạng như buồn, tủi, có khi tự hào. Hệ thống từ láy gợi cảm, giàu sức gợi được sử dụng linh hoạt: Cút, leo lẻo, thiểu não, lười biếng,… Ngôn ngữ giản dị, đậm màu sắc thôn quê của đất phương Nam: Cút, loang lổ, nơ rơm, dao rựa…. Khéo léo kết hợp các điển cố điển tích , ước lệ tượng trưng như: Tiếng sếu, mùi cừu, mối mọt, chém rắn đuổi hươu… Nghệ thuật Đặc trưng của thể loại tản văn được thể hiện rõ qua các câu văn cùng cấu trúc ngữ âm: “Chờ đợi / don không cần/phải/chỉ cần/đừng đợi/đừng đợi…” nghệ thuật Thủ pháp tương phản hai cấp độ được sử dụng thành công là “Đá lửa…kiếm mòn…/ Quan công cần cù…không sợ của người miền Tây…/ Những kẻ vượt… hè qua….. tiếng súng.” Giọng điệu uyển chuyển có khi hùng tráng, sục sôi khi thể hiện sự kiêu sa, có khi bi thương, đau xót khi nói về những mất mát, đau thương.

Xem thêm bài viết hay:  [Năm 2022] Tôi thấy mình đã khôn lớn xem nhiều nhất (dàn ý – 10 mẫu)

Chính những điều đó đã khắc họa nên hình ảnh nghĩa sĩ nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc – những con người anh dũng dám hi sinh vì đại nghĩa với một lòng yêu nước nồng nàn “Nó kết thành một làn sóng rất mạnh và rất lớn, nó lướt qua mọi hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả những người bán nước và cướp nước. Với chí khí ấy, con người ấy đã trở thành một hình ảnh cao đẹp, đáng khâm phục và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. đạo đức, tư tưởng nhân văn thì đến thơ văn giai đoạn sau 1858. Đồ Chiểu là ngọn cờ đầu cho văn thơ chống Pháp đầu thế kỷ 19, đề cao tinh thần yêu nước. lối đi riêng trên bầu trời nghệ thuật của dân tộc.

Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:

van-te-nghia-si-can-giuoc-1.jsp

Các bộ đề lớp 11 khác

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *