Soạn bài bài thơ về tiểu đội xe không kính

Soạn bài thơ về tiểu đội xe không kính

(Phạm Tiến Duật trong Vầng trăng quầng lửa NXB 

Văn học, Hà Nội, 1970)

I. Đôi nét về tác giả, tác phẩm

– Phạm Tiến Duật sinh năm 1942, quê ở tỉnh Phú Thọ. Ông là nhà thơ quân đội trưởng thành trong thời chống Mĩ. Tác phẩm chính: Vầng trăng – quầng lửa (1970), Thơ một chặng đường (1971), Ở hai đầu núi (1981).

Thơ Phạm Tiến Duật giọng ngang tàng, có cả chất nghịch ngợm, sôi nổi và tươi trẻ. Ông cũng có nhiều tìm tòi, khai thác chất liệu hiện thực của đời sống chiến tranh, đưa vào thơ những hình ảnh chi tiết rất thực làm giàu thêm cho chất liệu thi ca.

– Bài thơ về tiểu đội xe không kính rút từ tập thơ Vầng trăng quầng lửa của tác giả. Đây cũng chính là bài thơ trong chùm thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969-1970.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính với một hình ảnh độc đáo sáng tạo: Những chiếc xe không kính làm nổi bật lên hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi.

II. Đọc – hiểu văn bản

Câu 1. Hình tượng những chiếc xe không kính, nét độc đáo của bài thơ.

Để làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trẻ trung, hiêng ngang, dũng cảm và sôi nổi ở tuyến đường Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã sáng tạo một hình ảnh thật độc đáo: đó là những chiếc xe không kính chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận. Nói là thật độc đáo là vì lần đầu tiên một hình ảnh thực, thực đến trần trụi như vậy được đưa vào thơ ca. Trước đó, dù là chiếc xe tam mã của Pusin hay con tàu của Chế Lan Viên trong Tiếng hát con tàu cũng đều được mĩ hóa, thi vị hóa đi rồi. Ngay cả vì sao xe không có kính? Nhà thơ cũng giải thích rất thực:

Không có kính không phải xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

Hai câu thơ rất gần với lời nói, giống như câu văn xuôi tạo được cái giọng ngang tàng, coi thường khó khăn, bất chấp hiểm nguy của các anh lính lái xe. Nhà thơ đã đưa được một giọng điệu khác lạ vào thơ nên gây được sự chú ý của mọi người yêu thơ.

Trong chiến tranh, bom đạn còn có thể tàn phá những chiếc xe ấy nhiều hơn nữa:

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Hình ảnh những chiếc xe không kính ấy tuy thường gặp trong chiến tranh, nhưng không phải ai cũng nhận được chất thơ của nó. Phải nhạy cảm với nét ngang tàng nghịch như Phạm Tiến Duật mới đưa được hình ảnh đó vào thơ và thành công như ta đã thấy.

Câu 2. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe

Chính trong điều kiện thiếu thốn những điều kiện vật chất tối thiểu đó ta thấy nổi bật lên lồng lộng hình ảnh người lính ngồi trong tư thế hiên ngang vững chãi:

Ung dung buồng lái ta ngồi, 

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Qua khung cửa xe thiếu kính chắn gió, anh lính lái xe lại có dịp tiếp xúc thẳng với thế giới bên ngoài.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

Khổ thơ diễn tả chân thực cảm giác về tốc độ trên một xe không kính chắn gió lao nhanh. Người lính lái xe ở đây coi thường khó khăn, gian khổ, hiểm nguy của chiến trường nên giọng cứ ngang tàng tếu táo: Không có kính, từ thì có bụi! Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc. Không có kính từ thì ướt áo… Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa… Các anh sôi nổi, lạc quan và vui nhộn: Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha, bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời, chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy, võng mắc chông chênh đường xe chạy…

Bởi vậy, chiếc xe bị bom đạn tàn phá: Không có kính, rồi không có đèn không có mui xe, thùng xe có xước… vậy mà kì diệu thay, chiếc xe ấy vẫn băng băng trên đường ra trận. Nhà thơ giải thích thật bất ngờ, thú vị mà xác đáng biết bao:

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Chính ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà, chính tình yêu nước nồng nàn và mãnh liệt của tuổi trẻ đã làm nên sức mạnh diệu kì giúp họ coi thường gian khổ, bất chấp cả hiểm nguy như thế.

Về ngôn ngữ và giọng điệu của bài thơ, ai cũng thấy nhiều câu gần gũi với lời nói thường ngày đậm chất văn xuôi. Giọng điệu ngang tàng, nghịch ngợm thể hiện tư thế và tính cách hiên ngang, coi thường hiểm nguy, gian khổ của các anh lính lái xe đường Trường Sơn ngày cũ.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh những anh lính lái xe trên đường Trường Sơn đầy gay go thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Giọng điệu trẻ trung, tinh nghịch gắn với những lời nói trong sinh hoạt thường nhật và đặc biệt là cách hình tượng thơ mới mẻ độc đáo đã thể hiện rõ phong cách thơ riêng của Phạm TIến Duật một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ.