6 cách phòng tránh ung thư vú sớm từ các yếu tố rủi ro

Ung thư vú hình thành có liên quan đến gen, lối sống và môi trường xung quanh phối hợp, làm tăng hoặc giảm nguy cơ. Phòng ngừa ung thư vú giúp giảm số ca mắc mới. Dưới đây là 6 cách phòng tránh ung thư vú sớm từ các yếu tố rủi ro.

phòng tránh ung thư vú

Tại sao cần phòng tránh ung thư vú sớm?

Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ thống kê với những chị em được phát hiện sớm ung thư vú và đang ở giai đoạn khu trú thì tỷ lệ sống sau 5 năm đến 99%. Phát hiện sớm bao gồm tự kiểm tra vú hàng tháng và được bác sĩ khám vú lâm sàng và chụp nhũ ảnh theo hướng dẫn của bác sĩ.

Một số yếu tố nguy cơ như tiền căn gia đình ung thư vú hay mang đột biến gen là không thể thay đổi. Tuy nhiên, bạn có thể thay đổi lối sống để giảm nguy cơ mắc bệnh, bắt đầu bằng những thói quen lành mạnh và duy trì hoạt động thể chất để có thể phòng tránh ung thư vú sớm.

Tại sao cần phòng ngừa ung thư vú sớm?
Phòng ngừa ung thư vú giúp giảm số ca mắc mới và số ca tử vong.

6 cách phòng tránh ung thư vú sớm

1. Yếu tố lối sống

Duy trì cân nặng hợp lý

Duy trì cân nặng khỏe mạnh. Nếu cân nặng của bạn khỏe mạnh, hãy cố gắng duy trì cân nặng đó. Nếu bạn cần giảm cân, hãy hỏi bác sĩ về các chiến lược lành mạnh để thực hiện điều này. Giảm số lượng calo bạn ăn mỗi ngày và từ từ tăng cường độ tập thể dục.

cách phòng tránh ung thư vú sớm
Duy trì cân nặng phù hợp giúp giảm nguy cơ ung thư vú và nhiều bệnh khác: tiểu đường, tim mạch…

Hoạt động thể chất

Hoạt động thể chất có thể giúp bạn duy trì cân nặng khỏe mạnh, giúp ngăn ngừa ung thư vú. Hầu hết những người trưởng thành khỏe mạnh nên tập ít nhất 150 phút một tuần cho hoạt động aerobic vừa phải hoặc 75 phút cho hoạt động aerobic mạnh mẽ hàng tuần, cộng với rèn luyện sức mạnh ít nhất 2 lần một tuần.

Hạn chế đồ uống có cồn

Hạn chế rượu bia. Bạn càng uống nhiều rượu, nguy cơ phát triển ung thư vú càng cao. Khuyến nghị chung dựa trên nghiên cứu về tác động của rượu đối với nguy cơ ung thư vú là hạn chế uống quá một ly mỗi ngày, vì ngay cả một lượng nhỏ cũng làm tăng nguy cơ.

Chế độ ăn uống lành mạnh

Một chế độ ăn uống lành mạnh chủ yếu vào thực phẩm có nguồn gốc thực vật, như trái cây và rau, ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu và quả hạch, dầu ô liu nguyên chất và các loại hạt hỗn hợp, cá, thịt gia cầm không da, … có thể làm giảm nguy cơ mắc một số loại ung thư, cũng như bệnh tiểu đường, bệnh tim và đột quỵ.

Để giảm nguy cơ ung thư vú, các bữa ăn lành mạnh và cân bằng nên bao gồm:

Chế độ ăn uống lành mạnh
Chế độ ăn uống lành mạnh giúp làm giảm nguy cơ mắc một số loại ung thư, cũng như bệnh tiểu đường, bệnh tim và đột quỵ.

Bỏ thuốc lá

Bỏ thuốc lá giúp ngăn ngừa nhiều bệnh nguy hiểm về hô hấp và giảm nguy cơ ung thư vú.

Cho con bú

Cho con bú có thể đóng một vai trò trong việc ngăn ngừa ung thư vú. Bạn cho con bú càng lâu thì tác dụng bảo vệ càng lớn.

2. Hạn chế liệu pháp hormone sau mãn kinh (HRT)

Ở một số phụ nữ sau mãn kinh hoặc đã cắt bỏ buồng trứng thường sử dụng estrogen dạng thuốc viên thay thế nội tiết tố trong cơ thể. Đây được gọi là liệu pháp thay thế hormone (HRT) hoặc liệu pháp hormone (HT). [2]

Thế nhưng, việc sử dụng các liệu pháp hormone này có nguy cơ ung thư vú cao hơn.

Ngoài ra, có một số bằng chứng cho thấy biện pháp tránh thai nội tiết tố, bao gồm thuốc tránh thai và vòng tránh thai giải phóng hormone, làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Nhưng nguy cơ ung thư vú được coi rất nhỏ và sẽ giảm sau khi chị em ngừng sử dụng các biện pháp tránh thai nội tiết tố, tỷ lệ rất nhỏ này là 1 trên 7690 ca.

Vì vậy, bạn hãy thảo luận với bác sĩ về các biện pháp lựa chọn tránh thai, xem xét các lợi ích của biện pháp tránh thai bằng nội tiết tố như kiểm soát chảy máu kinh, ngừa mang thai ngoài ý muốn và giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư khác như nội mạc tử cung và ung thư buồng trứng.

3. Thường xuyên kiểm tra vú và vùng ngực

Cảnh giác với việc phát hiện ung thư vú. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ thay đổi nào ở ngực như có khối u mới phát hiện, các thay đổi trên núm vú hoặc thay đổi trên da, hãy tham khảo ý kiến ​​bác sĩ. Ngoài ra, quan trọng nhất là bạn hãy hỏi bác sĩ khi nào bắt đầu chụp X-quang tuyến vú và các sàng lọc khác dựa trên bệnh sử cá nhân và gia đình của bạn.

4. Định kỳ khám tầm soát ung thư vú

Bắt đầu từ năm 40 tuổi, phụ nữ nên chụp X-quang tuyến vú (chụp nhũ ảnh) định kỳ hàng năm. Phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú cao nên sàng lọc sớm hơn (trước 40 tuổi). Chụp X-quang tuyến vú không giúp ngừa ung thư nhưng có thể phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm và điều trị kịp thời.

5. Phẫu thuật để giảm nguy cơ ung thư vú

Đột biến gen BRCA1 hoặc BRCA2 làm tăng nguy cơ ung thư vú, người có nguy cơ nên cân nhắc cắt bỏ vú để phòng ngừa ung thư vú (còn gọi là phẫu thuật đoạn nhũ dự phòng), giúp giảm nguy cơ phát triển ung thư vú ít nhất 90% đến 95%. Người có các đột biến gen này cũng nên cân nhắc cắt buồng trứng và ống dẫn trứng. Trước khi thực hiện các phẫu thuật này, người bệnh cần trao đổi với bác sĩ về những vấn đề trước, trong và sau mổ như thế nào.

6. Thuốc làm giảm nguy cơ ung thư vú

Nếu bạn có nguy cơ phát triển ung thư vú cao hơn bình thường, hãy cân nhắc trao đổi với bác sĩ về các loại thuốc ngăn chặn hormone để giảm nguy cơ ung thư.

Khi nào cần dùng thuốc để giảm nguy cơ ung thư vú?

Đối với những phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn mức trung bình, một số loại thuốc có thể giúp giảm nguy cơ này. Nhưng những loại thuốc này cũng có thể có tác dụng phụ, vì vậy điều quan trọng là phải cân nhắc ưu và nhược điểm của chúng trước khi quyết định dùng.

Dùng thuốc để giúp giảm nguy cơ mắc bệnh được gọi là phòng ngừa bằng hóa chất. Các loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất để giảm nguy cơ ung thư vú là tamoxifen và raloxifene. Các loại thuốc khác được gọi là chất ức chế aromatase (chẳng hạn như anastrozole và exemestane).

Bước đầu tiên để quyết định xem bạn có nên dùng thuốc để giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú hay không là đi khám bác sĩ, tư vấn và đánh giá nguy cơ ung thư vú của bạn.

Hầu hết các chuyên gia nói rằng nguy cơ ung thư vú của bạn phải cao hơn mức trung bình thì bạn mới cân nhắc dùng một trong những loại thuốc này. Nếu bạn có nguy cơ cao hơn mức trung bình, bạn cần cân nhắc giữa lợi ích của giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú với nguy cơ tác dụng phụ và các vấn đề khác khi dùng một trong những loại thuốc này.

Không có định nghĩa duy nhất về nguy cơ ung thư vú cao hơn mức trung bình. Nhưng hầu hết các nghiên cứu lớn đã sử dụng 1,7% nguy cơ phát triển ung thư vú trong 5 năm tới làm điểm giới hạn. (Đây là nguy cơ trung bình đối với một phụ nữ 60 tuổi.)

Một số tổ chức y tế khuyên các bác sĩ nên thảo luận về việc sử dụng thuốc để giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ từ 35 tuổi trở lên, có nguy cơ mắc bệnh trong 5 năm từ 1,7% trở lên.

Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ không có khuyến nghị sử dụng thuốc để giúp giảm nguy cơ ung thư vú.

Có lý do nào để không dùng một trong những loại thuốc này để giúp giảm nguy cơ ung thư vú không?

Tất cả các loại thuốc đều có nguy cơ và tác dụng phụ phải được thảo luận kỹ trước khi đưa ra quyết định về phòng tránh ung thư vú bằng thuốc.

Hầu hết các chuyên gia đồng ý rằng không nên sử dụng tamoxifen và raloxifene để giảm nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ:

*Những phụ nữ có nguy cơ bị cục máu đông nặng hơn bao gồm những người đã từng bị cục máu đông nặng (huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi). Nếu bạn bị đột quỵ hoặc đau tim, hoặc nếu bạn hút thuốc, béo phì, hoặc tăng huyết áp hoặc tiểu đường, thì bạn cũng có nguy cơ cao bị cục máu đông. Phụ nữ mắc bất kỳ tình trạng nào trong số này nên hỏi bác sĩ xem lợi ích của việc dùng một trong những loại thuốc này có lớn hơn nguy cơ hay không.

Một phụ nữ đã được chẩn đoán mắc bất kỳ loại ung thư tử cung nào hoặc tăng sản cổ tử cung không điển hình (một loại tiền ung thư) không nên dùng tamoxifen để giúp giảm nguy cơ ung thư vú.

Raloxifene chưa được thử nghiệm ở phụ nữ tiền mãn kinh, vì vậy nó chỉ nên được sử dụng nếu bạn đã trải qua thời kỳ mãn kinh.

Chất ức chế aromatase không hữu ích cho phụ nữ tiền mãn kinh, vì vậy chỉ nên sử dụng chúng nếu bạn đã trải qua thời kỳ mãn kinh. Những loại thuốc này có thể gây loãng xương, vì vậy chúng không phải là một lựa chọn tốt cho những phụ nữ đã có tình trạng loãng xương trước đó.

Nói chuyện với bác sĩ của bạn về tình hình sức khỏe của bạn để đưa ra lựa chọn tốt nhất có thể cho bạn.

Yếu tố rủi ro gây ung thư vú cần quan tâm

Các nhà nghiên cứu đã xây dựng một số công cụ thống kê để giúp dự đoán nguy cơ mắc bệnh ung thư vú của phụ nữ.

Ví dụ: Công cụ Gail model thường được sử dụng để đánh giá nguy cơ nguy cơ ung thư vú của bạn trong 5 năm tới và trong suốt cuộc đời của bạn, dựa trên nhiều yếu tố được liệt kê ở trên.

Tuy nhiên, công cụ này chỉ xem xét tiền căn gia đình của những người thân (như anh chị em ruột, cha mẹ và con cái). Và nó không thể được sử dụng để ước tính nguy cơ nếu bạn có tiền sử ung thư biểu mô ống tuyến vú tại chỗ (DCIS), ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS) hoặc ung thư vú hoặc nếu bạn mắc hội chứng ung thư gia đình.

Ngoài ra, dữ liệu mà công cụ này dựa vào không bao gồm phụ nữ thổ dân da đỏ hoặc Alaska, vì vậy ước tính cho những phụ nữ này có thể không chính xác.

Các công cụ đánh giá nguy cơ khác, chẳng hạn như Tyrer-Cuzick và Claus, phần lớn dựa trên tiền căn gia đình.

Những công cụ này có thể cung cấp cho bạn ước tính sơ bộ về nguy cơ của bạn, nhưng không có công cụ hoặc xét nghiệm nào có thể cho biết chắc chắn liệu bạn có bị ung thư vú hay không.

Dưới đây là các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú cần quan tâm

1. Lớn tuổi

Nguy cơ phát triển ung thư vú tăng theo độ tuổi. Hầu hết các bệnh ung thư phát triển sau 50 tuổi. Độ tuổi trung bình để phát triển ung thư vú là 63.

2. Có bệnh ác tính hoặc lành tính tại vú

Phụ nữ có tiền sử bị ung thư vú hoặc bệnh vú lành tính, ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS)… có nguy cơ ung thư vú cao hơn.

3. Yếu tố lối sống

Cũng như các loại ung thư khác, yếu tố lối sống khác nhau góp phần vào sự phát triển của ung thư vú. Sau mãn kinh, thừa cân… là các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú.

6. Thừa cân, béo phì

Thừa cân, béo phì… là các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú. Do đó cần có chế độ ăn uống, sinh hoạt lành mạnh, giữ cân nặng ở mức bình thường.

7. Dậy thì sớm hoặc bước vào mãn kinh muộn

Nếu kinh nguyệt bắt đầu trước 11 hoặc 12 tuổi hoặc thời kỳ mãn kinh bắt đầu sau 55 tuổi, nguy cơ ung thư vú sẽ cao hơn. Điều này là do các tế bào vú đã tiếp xúc với estrogen và progesterone trong một thời gian dài. Estrogen và progesterone là những hormone kiểm soát sự phát triển của các đặc điểm giới tính thứ cấp, chẳng hạn như phát triển vú và mang thai. Việc sản xuất estrogen và progesterone giảm dần theo tuổi tác, giảm mạnh vào thời kỳ mãn kinh. Tiếp xúc lâu hơn với các kích thích tố này làm tăng nguy cơ ung thư vú.

8. Phụ nữ lớn tuổi mới có con đầu lòng hoặc không sinh con hoặc không nuôi con bằng sữa mẹ

Mang thai làm giảm số chu kỳ kinh nguyệt trong đời người phụ nữ. Mô vú tiếp xúc với nhiều estrogen hơn trong thời gian dài hơn ở những phụ nữ mang thai lần đầu sau 35 tuổi hoặc những người không bao giờ mang thai.

9. Phụ nữ một số đột biến về gen như BRCA1 hoặc BRCA2

BRCA1 hoặc BRCA2 là những gen phổ biến nhất được biết đến có liên quan đến ung thư vú, ung thư buồng trứng và các loại ung thư khác. Ung thư vú ở nam giới, nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt và các bệnh ung thư khác, cũng tăng lên nếu có đột biến ở một trong những gen này. [3]

10. Sử dụng các liệu pháp hormone

Biện pháp tránh thai nội tiết tố gồm thuốc tránh thai và vòng tránh thai giải phóng hormone, làm tăng nguy cơ ung thư vú. Nhưng nguy cơ rất nhỏ và sẽ giảm sau khi ngừng sử dụng các biện pháp tránh thai nội tiết tố.

Các nghiên cứu cho thấy tác động hỗn hợp của liệu pháp hormone đối với sức khỏe, làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh và giảm nguy cơ mắc các bệnh khác. Cho dù estrogen được sử dụng riêng lẻ hay kết hợp với progestin, các hormone này đều làm tăng nguy cơ ung thư vú. Nếu phụ nữ dùng liệu pháp hormone trong thời kỳ mãn kinh, thì nên dùng trong thời gian ngắn nhất có thể. Phụ nữ nên hỏi ý kiến bác sĩ khi chọn tránh thai và liệu pháp hormone điều trị các triệu chứng sau mãn kinh.

Yếu tố rủi ro gây ung thư vú cần quan tâm
Tác động hỗn hợp của liệu pháp hormone đối với sức khỏe, làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.

11. Tiền sử gia đình

Bạn có nguy cơ mắc bệnh cao hơn nếu có mẹ hoặc chị gái bị ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng. Nguy cơ cao hơn nếu người thân bạn được chẩn đoán khi còn nhỏ.

12. Từng xạ trị vào vùng vú hoặc vùng ngực

Xạ trị vào ngực để điều trị ung thư làm tăng nguy cơ ung thư vú, bắt đầu vào 10 năm sau khi điều trị. Nguy cơ ung thư vú phụ thuộc vào liều lượng bức xạ và độ tuổi, cao nhất nếu xạ trị được sử dụng ở tuổi dậy thì, khi ngực đang hình thành.

Với phụ nữ có những thay đổi trong gen BRCA1 và BRCA2, việc tiếp xúc với bức xạ, chẳng hạn như bức xạ từ chụp X-quang ngực, có thể tăng thêm nguy cơ ung thư vú hoặc các bệnh lý tuyến vú khác.

13. Ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS)

LCIS là các tế bào bất thường được tìm thấy trong tiểu thùy hoặc các tuyến của vú. LCIS không phải là ung thư. Tuy nhiên, LCIS ở 1 vú làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú xâm lấn ở cả hai vú trong tương lai.

14. Mật độ vú

Mô vú dày đặc gây khó khăn cho việc phát hiện khối u trên các xét nghiệm hình ảnh tiêu chuẩn, chẳng hạn như chụp nhũ ảnh.

Mô vú dày đặc là tình trạng bạn có nhiều tuyến sữa, ống dẫn sữa và mô nâng đỡ ở vú hơn là mô mỡ. Khi chụp quang tuyến vú, có thể khó phân biệt khối u với mô nền bình thường nếu có mô dày đặc.

Khi nào cần phẫu thuật để giảm nguy cơ ung thư vú?

Một số phụ nữ có nguy cơ cao mắc ung thư vú có thể chọn phẫu thuật cắt bỏ vú dự phòng hoặc giảm thiểu rủi ro (cắt bỏ một hoặc cả hai vú). Sau phẫu thuật, hầu hết người bệnh ít lo lắng hơn về nguy cơ ung thư vú.

Một số phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú có thể quyết định cắt bỏ bên vú khỏe mạnh cùng lúc với bên vú bị ung thư, gọi là phẫu thuật cắt bỏ vú dự phòng đối bên.

Bác sĩ sẽ đánh giá rủi ro ung thư, tư vấn các cách phòng tránh ung thư vú cho bệnh nhân trước khi ra quyết định phẫu thuật.

Link nội dung: https://uws.edu.vn/bien-phap-nao-sau-day-khong-duoc-su-dung-de-phong-tranh-benh-ung-thu-a44678.html