Phân tích nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù
Đề bài: Anh / chị hãy phân tích nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
Trên cơ sở những hiểu biết về tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, nghệ thuật xây dựng nhân vật, thí sinh có thể triển khai vấn đề theo nhiều hướng khác nhau, nhưng cần nêu được những ý cơ bản sau:
– Tính cách nhân vật Huấn Cao:
+ Người anh hùng dũng liệt.
+ Người tài hoa.
+ Có thiên lương trong sáng.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: bút pháp lãng mạn, lí tưởng hóa, thủ pháp tương phản, ngôn ngữ…
– Đánh giá chung: Huấn Cao là nhân vật lí tưởng, thể hiện quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.
Có thể bạn quan tâm:
Cảm nhận về bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
Phân tích truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạc Lam
Phân tích bài thơ tự tình II của Hồ Xuân Hương
Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Đề bài: Phân tích nhân vật Huấn Cao trong truyện “ Chữ người tử tù” ( Nguyễn Tuân ).
Chữ người tử tù là truyện ngắn xuất sắc được in trong tập “ Vang bóng một thời’’ của Nguyễn Tuân xuất bản năm 1940. Tấp truyện được xem là :”một văn phẩm đạt gần tới sự toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Một trong những làm nên giá trị của tác phẩm là ở đó tác giả đã xây dựng nhân vật Huấn Cao, một hình tượng nhân vật hết sức độc đáo.
Tác giả Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn nổi tiếng trước CM tháng Tám, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ônng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng là truyện ngắn và tùy bút. Trước CM thág Tám ông viết xoay quay 3 đề tài . Đề tài về cái tôi của chủ nghĩa xê dịch, cái tôi hưởng thụ trụy lạc và cái đẹp ngày xưa nổi tiếng một thời nay không còn nữa chỉ vang bóng lại. Sau Cách mạng tháng Tám ông viết phục vụ CM.
Tác phẩm Chữ người tử tù lúc đầu có tên là dòng chữ cuối cùng được đăng trên Tạp Chí Tao Đàn (1938). Vế sau tác giả đổi tên la Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời (1940).Chữ người tử tù là chữ viết của người có tội bị giam trong ngục. Ở tác phẩm, tác giả ca ngợi thú chơi chữ có tính truyền thống văn hóa, ca ngợi nhứng con người biết chơi , dám chơi đồng thời qua đó thể hiện tấm lóng yêu nước của nhân vật HC.
Trước một xã hội “ Tây Tàu nhố nhăng’’, Hán học suy vi ,mâu thuẫn xã hội gay gắt.Dường như con người ta muốn buông xuôi tắt cả. Thế nhưng “Thời thế tạo anh hùng” vẫn còn một số người, đại diện cho nhũng nho sĩ cuối mùa, nhũng con người tài hoa bất đắc chí muốn lấy cái “ tôi” tài hoa , ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm tục; phô diễn lối sống đẹp , thanh cao của mình như một thái độ phản ứng trật tự xã hội đương thời. Trong số những con người tài hoa ấy , nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao.
Huấn Cao vốn là người văn võ song toàn, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp.Ngừoi tỉnh Sơn ai cúng biết Huấn Cao có tài viết chữ đẹp và rất nhanh, ngoài ra ông còn có tài bẻ khóa nữa. Huấn Cao bị nhà nước thực dân ghép vào tội đại nghịch nên bị bắt giam chờ ngày về kinh chịu tội. Trong những ngày bị giam giữ cuối đời, Huấn Cao vẫn toát lên vẻ đẹp hiên ngang , bình tĩnh và sáng suốt của 1 ngừơi anh hùng . Qua đó mới thấy được vẻ đẹp tài hoa, khí phách , khí tiết của Huấn Cao .
Tài viết chữ đẹp của Huân Cáo đươc mọi ngừơi kính nể. Bởi lẻ, cái hiếu thẩm mỹ của người xưa về viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý. Huấn Cao viết chữ Hán đẹp, người ta xem những tác phẩm của ông như là những tác phẩm nghệ thuật để trang trí trong nhà . Ở trong truyện, Nguyễn Tuân không trực tiếp miêu tả vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao mà thông qua nhân vật Viên Quản ngục để làm bật lên cái tài viết chữ đẹp của ông. Viên quản ngục là một người rành chơi chữ, khi biết Huấn Cao sắp được giải đén nhà lao của mình , viên quản ngục đâm chiêu lưỡng lự, tìm cách đối xử với Huấn Cao như thế nào cho đúng. Lão ái mộ Huấn Cao đến mức xuống nước biệt đãi cơm , rượu , thịt cho Huấn Cao. Dù biết đó là việc hết sức nguy hiểm và nếu có người tố giác sẽ khiến viên quản ngục mất việc, hơn nữa là mất mạng nhưng lão vẫn bất chấp , đã thế còn bị Huấn Cao khinh bạc đủ điều: “ Ngươi hỏi ta muốn j, ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng đặt chân đến đây nữa”.
Viên Quản ngục nhịn nhục vì ông biết rằng:” Chữ HC đẹp lắm , vuông lắm có được chữ HC treo trong nhà là một vật báu ở trên đời”.
Vì sao Viên Quản Ngục lại chịu nhịn nhục và bất chấp nguy hiểm để biệt đãi HC. Phải chăng trước vẻ lạnh lùng , ngang tàn của một người anh hùng khiến VQN có thái độ đặc biệt như vậy. Không , mà vì VQN rất trân trọng , khâm phục, yêu quí cái tài viết chữ đẹp của HC.
Qua sở thich của VQN, ta thấy nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa của HC. VÌ chữ đẹp của HC mà VQN có thể sẵn sàng chịu nhịn nhục, chịu bị HC trách mắng đủ điều và hơn nữa bất chấp cả tính mạng.
Bên cạnh vẻ đẹp tài hoa , HC cò toát lên vẻ đẹp nhân cách, cái nhân cách cao đẹp chiếu sáng cả cuộc đời ông. Ông không luồn cúi, chịu cảnh cá chậu chim lồng mà đi làm giặc chốg lại triều đình. Điều này khiến ông hơn người
Nhân cách ấy còn được thể hiện khi ông bị giải tới nhà lao. Nhà lao là nơi cái nơi tối tăm, xiềng xích bủa vây , tra tấn con người ta về mặt thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhứng với HC khi giải tới nhà lao ông vẫn hiên ngang, cổ mang gông tử tù bước vào ngục tử tội chờ chết mà ông vẫn không hề biết sợ.
Cái hình ảnh của người anh hùng tuy thất thế mà vẫn hiên ngang ấy khiến người ta phải ngưỡng mộ. Đó là nhân cách của con người:” bần tiện, bất năng di, phú quí bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”. Bước vào nhà lao trước đông đảo bọn cai tù mặt nhìn soi mói như ăn tươi , nuốt sống . Nhưng như vậy cúng chẳng khiến HC bận tâm và cảm thấy sợ sệt một chút nào cả, ông lạnh lùng bảo 5 người cùng xích chung trong cùng một cái thang gông:”Rệp cắn tôi , đỏ cả cổ lên rồi, phải dỗ gông đi”. HC Cao cùng 5 người thúc thang gông xuống trong lúc bọn cai tù đe dọa châm biếm :” Các ngươi chỉ phải tập thêm nữa …cho mấy hèo bây giờ”.Nhưng HC vẫn thản nhiên: “ Khom mình cúi thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng”. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh , đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt, riêng HC vẫn lạnh lùng bình thản như không.
Không chỉ có vậy nhân cách của HC còn được thể hiện khi VQN xuống tận buồng giam thăm và nói HC “ Ngươi cần j xin cho biết rồi sẽ liệu”. Nếu một người không có khí phách chắn hẳn sẽ năn nỉ van xin hay cảm ơn. Nhưng với HC thì không đời nào, ông không vì rượu thit mà lung lạc tinh thần. HC nói: “ Ngươi hỏi ta muốn j, ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng đặt chân đến đay nữa”.Bất chấp sau câu nói ấy HC có thể sẽ làm VQN tức giận và không được ăn ngon như trước hay bị một trân đòn nhưng HC vẫn nói . Đó là khí phách của của một người có bản lĩnh kiên cường .
HC còn bật lên vẻ đẹp khí tiết nữa.Đối vơi Hc tiền bạc, uy vũ sức mạnh không làm lung lạc tinh thần:” ta không vì tiền bạc , quyền thế mà ép mình viết chữ cho ai bao giờ”. Nhưng khi được Viên Thơ kể lại về sự tình của VQN, HC đã nhận thức được một tâm hồn trong sáng của VQN, người yêu cái đép, vì cái đẹp mà bất chấp nguy hiểm.VQN thật sự la ngườt tốt, xh rối ren khiến lão lạc vào đám cặn bã này thôi , khiến HC không nhận ra: “…nào ta có biết …Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng thiên hạ”. Đúng là HC dù là con người lạnh lùng, mạnh mẽ , cứng đầu lúc nhận ra con người thực của VQN , Quản ngục chỉ là cái áo khoác bên ngoài còn thực chất lão là người tốt , không mưu mô , xảo quyệt như trc đây HC đâ nghĩ .Trước thái độ chân thành cũng như tình cảm của VQN đối với mình khiến HC mềm lòng cảm động và quyết đjnh cho chữ VQN.
Đêm hôm ấy, HC đã cho chữ VQN, một trong những cảnh tượng xưa nay chưa từng có. HC sàng tạo trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt: đêm khuya , trong căn phòng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện , đất bừa bãi phân nhện và phân gián, người sáng tạo ra cái đẹp , cổ đeo gông, chân vướng xiềng xích mà lại là người tự do và đầy uy quyền nhất. Người đọc không chỉ thấy đây là cảnh tượng cho chữ mà là cảnh truyền ngôi thụ giáo. Đẹp hơn nữa, HC còn tguyết giáo cho VQN cải tà quy chánh . VQN cảm động vài người tù một vài, chắp tay nói một câu mà nước mắt rỉ vàokẽ miệng làm cho nghẹn ngào:”Kẻ mê mụi này xin bái lĩnh “ Đó là vẻ đẹp khí tiết của một nhân cách cao thượng và ở khả năng cảm hóa con người của HC.
Nguyễn Tuân đã khắc họa nhân vật Huấn Cao thật tài tình , ở nhân vật này người đọc không chỉ thấy sự tài hoa của người nghệ sĩ mà còn là một con người có khí phách , khí tiết cao đẹp.Đó cũng là ước muốn của Nguyễn Tuân cũng như cái nhìn của ông : người nghệ sĩ không chỉ có tài mà còn phải có tâm có nhân cách đẹp.Vì vậy tác giả xây dựng nhân vật HC nhú tấm gương sáng để các thế hệ sau có cái nhìn về cái đẹp tài hoa và cái đẹp trong nhân cách, khí tiết và để lại cho người đọc một sự yêu mến , một sự ngưỡng mộ. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã để lại ho nền văn học Việt Nam một tác phẩm đầy chất nhân văn .
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Từ đó nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn
Bài làm
Trong vườn văn học Việt Nam, đặc biệt là trong trào lưu văn học lãng mạn 1930 – 1945 tỏa ngát những bông hoa muôn màu, muôn sắc. Giữa vườn hoa ngàn sắc tía đó nổi lên một bông hoa ngát hương: Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân – tác phẩm viết về “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Trong Vang bóng một thời, truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị riêng, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người tử tù đều rung động, cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí, đó là Huấn Cao. Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, khí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh túy nhất, thanh tao nhất, tinh khiết nhất.
Huấn Cao là một hình tượng thẩm mĩ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ vừa là người có nghĩa khí. Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát, là linh hồn của nhà nho kiệt xuất. Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là một người có tài, có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn triều Nguyễn, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, chống lại bọn cường quyền, đả kích xã hội phong kiến thối nát, bỉ ổi. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ngợi ca Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa hòa hợp với cái đẹp của khí phách, tuy chí lớn không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy, gian khổ, xem khinh cái chết. Tư thế của Huấn Cao hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao trước phải nhắc tới cái tài. Huấn Cao là một người viết chữ đẹp: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quí và chơi chữ đẹp là thú chơi thanh cao của các cụ đồ nho xưa. Viết chữ đẹp là biểu hiện của con người có trí thức, một vẻ đẹp hoàn mĩ trong văn hóa truyền thông dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người thèm muốn, khát khao. Ngoài ra, Huấn Cao còn có tài bẻ khóa vượt ngục tù, coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành, luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào trong lòng độc giả như một người anh hùng, một trượng phu đã vượt lên trên tất cả cái bình thường, nhỏ nhoi, hẹp hòi của cuộc đời để vẫy vùng, để “chọc trời khuây nước”. Nhưng trong cái xã hội phong kiến người bóc lột người, nhân tài như lá mùa thu ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du cũng đã từng viết về Từ Hải – một anh hùng thời đó:
“Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”
Song vị “hùm thiêng” Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao của chúng ta vẫn hiên ngang, bất khuất, vẫn dũng khí kiên cường. Đo đó, người đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người có tài mà ông còn là một người có dũng khí, hiên ngang trước bạo lực cường quyền, trước cái chết đang treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của Huấn Cao, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết sức trân trọng cái tâm của Huấn Cao. Bởi “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du) hay như Lạc Du, một nhà thơ yêu nước của Trung Quốc thời nhà Tống, sau cuộc đời làm thơ của mình đã khuyên con:
Như quả dục học thi
Công phu tại thi ngoại
(Nếu như quả là con muốn học làm thơ thì công phu là ở ngoài việc chữ nghĩa)
Cái Tâm của ông cũng vuông vắn, cao khiết và đầy sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ, “phong cách tức là con người” đã được thể hiện rất rõ ở đây.
Mặc dù viết chữ Nho đẹp “Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời” lẽ ra ông trung thành với đạo thánh hiền, giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ với triều đình. Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm “cá chậu chim lồng”, thà làm “giặc triều đình” sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bị bắt, bị kết vào mực án cao nhất là tử hình ông vẫn không hề tỏ ra run sợ, không mảy may tiếc nuối hối hận. Huấn Cao – ngôi sao Hôm chính vị ấy – bước vào nhà ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách, ung dung. Trong con mắt của bọn lính ông thật cao thượng, bất khuất, kinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang tàng, lạnh lùng. Huấn cao ung dung, lãnh đạm, đỗ gông trước mặt chúng nó, không thèm chấp lời đe dọa của bọn lính”chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Ông bìn thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, “coi như mình có quyền hưởng thụ”, ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mắt nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không hề run sợ, không căm hờn, oán giận, không van xin, cầu khẩn. Đó là cái nhìn của một kẻ dám làm, dám chịu.
Thậm chí ông còn kinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt của quản ngục: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân tay vào đây”.
Con người “khuấy nước, chọc trời” này chẳng biết nể sợ ai. Nếu trong đời thường, “trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”, “nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn ngục tù bé nhỏ này làm sao mà lung lạc được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân cách lí tưởng mà con người ngàn năm qua vẫn ao ước: “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Cái thái độ khinh đời ngang tàng đó phải chăng đã làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Thái độ kính phục của quản ngục gợi cho ta nhớ đến mootk trong những đoạn hay nhất của bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victo Huygô, đoạn Người cầm quyền khôi phục uy quyền. Trong đó, kẻ có quyền hành trong tay luôn bắt bớ, đánh đập, hành hạ, xúc phạm con người một cách không nương tay, không thương tiếc là thanh tra Giave đã bị khuất phục trước vẻ đẹp nhân cách của người tù khổ sai mà hắn suốt đời săn lùng là Giăng Van giăng. Thì ra quyền lực không phải là uy quyền, bạo lực, là gông cùm, xiềng xích. Quyền lực là cái đẹp, phẩm chất Người, chủ nghĩa nhân đạo, là thiên lương vẫn có uy quyền riêng bất khả chiến thắng. Chính vì thế, Huấn Cao đã mang đến cho chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh sáng kỳ ảo, huyền diệu, lung linh, chói lọi, soi sáng đạo lí làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang tỏa sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của nhà tù.
Huấn Cao – vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng, trí mà còn là một con người có trái tim nhân hậu. Khi biết được thiện ý của quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động.
Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng với hai người bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia phải mềm lòng. Chính “cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” và những “sở thích cao quí”, hướng về văn minh, văn hóa mới cảm hóa được trái tim dường như đựợc đúc bằng thép ấy. Thái độ “biệt nhỡn liên tài” của Huấn Cao đối với quản ngục không phải là sự “liên tài” sự trả ơn đối với những người đã đối xử tử tế, biết chơi chữ củaa mình mà là sự trân trọng, cảm động trước một nhân cách “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp nháp của lao tù mà vẫn giữ được Thiên lương, biết trọng người tài, kính cái đẹp thì thật là đáng cảm phục. Đó cũng là một đóa sen trong bùn.
Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu tỏa ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp của nhân cách Huấn Cao. Ở đây vẻ đẹp này tỏa hương thơm ngát hơn lúc nào hết. Dưới ngòi bút tài ba Nguyễn Tuân, một cảnh tượng đầy kịch tính đã diễn ra, một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Đó là sự tương phản giữa một bên là gian nhà lao ẩm thấp, tối tăm bẩn thỉu, “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân giận” với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của một bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. “Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch nguyên vẹn”.
Nó là sự trái ngược của sự tàn bạọ, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của một nền văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa đê tiện và cái trong trẻo cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính chất tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, sắc sảo như Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Gần đạt tới sự toàn mĩ”.
Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực – bó đuốc của trí tuệ, của niềm tin, của hi vọng và trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa, cái hôi hám, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, bị quyến rũ vào một sự vật: tấm lụa bạch nguyên vẹn. Đúng thế, ở đây chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn tại. Chính tấm lụa trắng tinh này mà ông Huấn Cao đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới thực sự có sức mạnh. Ớ đây, không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn là một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng của chân lí về cái đẹp. Ngôi sao sáng – Huấn Cao – đang phát quang bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị ngàn đời ở đây. Huấn Cao như đem đến nơi này một thế giới khác, thế giới văn hóa. Vẻ đẹp cao nhân đó đã làm cho “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực”. Tự nhiên, ở nhà ngục này có sự thay bậc, đổi ngôi, có sự chuyển hóa vị trí, vị thế xã hội của con người. Nó nổi lên một sự thật mà đầy tính lãng mạn. Giờ phút này và tại nơi đây không phải quản ngục làm chủ mà người tù làm chủ. Sức mạnh, quyền lực của cái đẹp và chân lí là thế. Cái đẹp và cái chân lí tồn tại trên đời, thể hiện sức mạnh quyền uy theo cách riêngcủa nó.
Nó không khuất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không giày xéo, áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta vươn lên, đứng dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái chân, thiện, mĩ, trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn: Và ở đây, “cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người” (Đôxtôiepxki). Cáỉ đẹp đăng quang, cái xấu đã phải chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái Thiên lương (bản tính tốt đẹp sẵn có ở mỗi con người).
Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một nhân cách – nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp để cái đẹp mãi mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi bất tử vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc họa bằng rigòi bút lãng mạn cứ sừng sững, hiên ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt trì trệ: “Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã (…). Ở đây, khó giữ được thiên lương cho lành vững…”.
Phải chăng đó là quan niệm thẩm mĩ của Huấn Cao, hay cũng chính là của tác giả Nguyễn Tuân: cái đẹp phải gắn với cái thiện, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của Huấn Cao đã khiến cho ngục quản cảm động vái người tù một cái và nói một lời thật cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Chính Cao Chu Thần cũng có một câu nói thật đẹp:
“Nhất sinh đè thủ bái mai hoa”
(Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai).
Cái cúi đầu của quản ngục trước con người tài hoa, đầy dũng khí Huấn Cao này chẳng khác gì Cao Bá Quát cúi đầu trước hoa mai vậy.
Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về nhân thân nhưng lại rất tự do về nhân cách, đúng như Bác Hồ – vị Cha già kính yêu của dán tộc đã nói:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
Trước cái chết kề cận, cái chết giáp bên nhưng con người nhân, trí, dũng đó vẫn hiên ngang anh dũng, lạc quan, yêu đời, như chị Võ Thị Sáu – nữ chiến sĩ dũng cảm, anh hùng của dân tộc Việt Nam:
“Đi giữa hai hàng lính vẫn ung đung mỉm cười”
Hay nói khác đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong bối cảnh lịch sử đầy rẫy những xấu xa, tội ác, biểu tượng cho Thiên lương. Con người sống vượt lên trên những hiện thực tầm thường tăm tối để tỏa sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lí dân tộc.
Chung qui lại, dựng nên hình tượng ông Huấn Cao với vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp, chật chội, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp việc khắc họa tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh nặng tính hiện thực lẫn lãng mạn. Những chi tiết lãng mạn trong truyện có lẽ là lời nhắn gửi của Nguyễn Tuân. Hãỵ vững tin vào cái đẹp như Biêlinski nhận xét về cảm hứng lãng mạn: “Cảm hứng lãng mạn là khát vọng đối với tất cả những đẹp đẽ và cao quí”. Có thể nói Chữ người tử tù với bút pháp sắc sảo khi dựng người dựng cảnh với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi “vang bóng” trong bạn đọc nhiều thời.