Phân tích hai khổ đầu bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Đề bài: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
“Sóng gợn tràng gian buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Hướng dẫn làm bài
1. Mở bài
– Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới (1932 – 1945). Thơ Huy Cận, vừa có chất cổ điển, vừa có chất suy tưởng, triết lí.
– Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng (1940) là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Huy Cận. Theo tác giả, bài thơ này được viết vào mùa thu 1939 và cảm xúc được khơi gợi chủ yếu từ phong cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước. Tràng giang thể hiện nỗi sầu của một “cái tôi” trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, trong đó thấm đượm tấm lòng đối với quê hương đất nước của thi sĩ.
2. Thân bài
a. Khổ thơ thứ nhất
– Bài thơ có tựa đề “Tràng giang”, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề:
Sóng gợn tràng gian buồn điệp điệp
“Tràng giang” chứ không phải là “trường giang”, mặc dù “tràng giang” và “trường giang” đều chó chung một ngữ nghĩa. Nhờ cách điệp vần “ang”, “tràng giang” góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm hùng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, “tràng giang” còn gợi lên được hình ảnh một con sông không những dài mà còn rộng. Tuy vậy, xét cho cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khơi gợi: khơi gợi được cả xúc cảm lẫn ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và theo thời gian (điệp điệp).
– Ở khổ đầu cũng như toàn bộ bài “Tràng giang”, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu là đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm luật như cách đối trong thơ cổ. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” có thể coi là đối với “con thuyền xuôi mái nước song song”; “nắng xuống trời lên sâu chót vót” đối với “sông dài, trời rộng, bến cô liêu”…
+ Nghệ thuật đối ý và đối xứng nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu bài thơ uyển chuyển, linh hoạt, tránh được những khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy ở không ít bài thơ viết theo lối Đường luật hồi đầu thế kỉ XX; mặt khác, nó vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, sự cân xứng, nhịp nhàng.
+ Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như “điệp điệp”, “song song” cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính.
– Tuy vậy, “Tràng giang” vẫn là một bài thơ hiện đại “Tràng giang” hiện đại ở hình ảnh, thi liệu và cảm xúc.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Vào những năm 30 của thế kỉ trước, đây được coi là những câu thơ mới mẻ; bởi trong đó xuất hiện cái tầm thường nhỏ nhoi, vô nghĩa như “củi một cành khô”. Thơ xưa chủ yếu là địa hạt dành riêng cho những “tao nhân mặc khách”, nó ít chấp nhận cái hiện thực thô ráp của đời thường. Nhìn chung, phải chờ đến Thơ mới, cái tầm thường mới xuất hiện và góp phần tạo nên một “cuộc cách mạng trong thơ” (Hoài Thanh). HÌnh ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh trên dòng sông mênh mông sóng nước dễ gợi lên nỗi buồn về kiếp người bé nhỏ, vô địch.
b. Khổ thơ thứ hai
Nỗi buồn càng như thấm vào cảnh vật:
“Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
– Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo / Bến Phì gió đổi đìu hiu mấy gò”. Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” cũng gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn….
– Câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” lâu nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ đâu (có và không có tiếng chợ chiều đã vãn). Dẫu hiểu theo cách nào, thì hình ảnh chợ chiều đã vạn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn. Ở đây, dường như Huy Cận muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người (không tiếng chợ chiều nằm trong hệ thống không một chuyến đò và không một cây cầu ở khổ thơ sau).
– Chỉ còn cảnh vật, đất trời mênh mông, xa vắng…
“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. “Sâu” gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. “Chót vót” khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, trời rộng với bến lẻ loi, xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người ở đây trở nên bé nhỏ, có phần như bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh).