Phân tích bài thơ tự tình II của Hồ Xuân Hương
Đề: Phân tích tâm trạng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương thể hiện trong bài thơ Tự tình (bài II).
Gợi ý: Phát hiện những tâm sự kín đáo của nữ sĩ Hồ Xuân Hương thể hiện trong bài thơ Tự tình II, có nhiều hướng khai thác để phân tích, có thể triển khai bài viết theo hướng bố cục của tác phẩm. HS cần xác định những ý chính như sau:
a. Tâm trạng buồn tủi, xót xa, sự thao thức, trăn trở, nỗi phiến muộn ngổn ngang của nhà thơ khung cảnh đêm khuya vắng lặng.
b. Tâm trạng phẫn uất trước duyên phận bẽ bàng, đó là bi kịch về thân phận người đàn bà dang dở, cô đơn, gặp nhiều ngang trái trong tình duyên.
c. Nỗi phiền phẫn uất, khát vọng vươn lên ngay trong hoàn cảnh bi thương nhất, ngang trái nhất.
d. Tâm trạng chán chường, buồn tủi, thể hiện qua:
– Một số từ ngữ như: ngán, xuân, lại lại, mảnh tình, con con.
– Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến.
Bài làm
Hồ Xuân Hương, nữ sĩ nổi tiếng thế kỉ XVIII đã được nhà thơ Xuân Diệu tôn vinh là “Bà chúa thơ Nồm”. Theo giai thoại lưu truyền trong dân gian thì bà là người đa tài, đa tình, tính cách phóng khoáng và giao thiệp rộng, có rất nhiều bạn văn chương. Tuy thế, đường tình duyên của nữ sĩ lại vô cùng lận đận, mấy lần lấy chồng đều không toại nguyện, vì thế mà bà luôn sống trong tam trạng cô đơn. Bài thơ Kể nỗi lòng (Tự tình II) có lẽ được sáng tác trong hoàn cảnh ấy.
Trong một ngày thì lúc hoàng hôn hay đêm khuya thanh vắng thường dễ gợi buồn nhất. Với những người đa cảm như Xuân Hương, đây là thời điểm mình sống thực với lòng mình và chắc là tâm trạng của bà sau bao sóng gió cuộc đời cũng chẳng khác mấy tâm trạng Thuý Kiều khi một mình một bóng trước ngọn đèn khuya: Khi tĩnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình mình lại thương mình xót xa !
Những cơn sóng cảm xúc đang cuộn xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư trăn trở, thao thức thâu đêm. Tiếng trống cầm canh lâu lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Bước chân của đêm tối mới nặng nề, chậm chạp làm sao! Chậm chạp nhưng nó vẫn đi, còn tâm trạng buồn thương của con người trong đêm khuya thì lắng đọng và chốc chốc lại như dồn như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng càng nặng trĩu. Nỗi đau đời âm ỉ, dai dẳng thiêu đốt tâm can nữ sĩ bấy lâu nay bật thốt thành lời chua chát, đắng cay. Hổng nhan là gương mặt đẹp, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung và những người con gái đẹp nói riêng. Nhưng lại gọi với ý mĩa mai là cái hổng nhan thì nữ sĩ đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác. Chao ôi! Biết bao là xót xa, hờn tủi trong cách gọi bất bình thường ấy! Lại còn trơ ra đó với nước non, có nghĩa là đã chai sạn mọi cảm giác, cảm xúc chứ không phải là trơ trọi trước cảnh nước non dào dạt sức sống, sức yêu. Đó là tình cảnh và tâm trạng bi đát của nữ sĩ ở giờ khắc đặc biệt này.
Tưởng như nỗi bất hạnh đã khiến tâm hồn hoá thành gỗ đá nhưng không phải. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành say cho quên vậy:
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Muốn mượn chén rượu thdm để say cho quên hết mọi đau khổ, bẽ bàng, lỡ lầm, dối trá… nhưng khổ nỗi không sao quên được. Hết say lại tỉnh mà bao hững hờ, dối trá của người đời vẫn sờ sờ ra đó và nỗi bẽ bàng, đau khổ của mình thì cũng cứ còn nguyên. Ước mong có được một mảy may bù đắp, một chút an ủi mà nào có được! vầng trăng bóng xế giống như đời mình đã ngả chiều. Chờ đợi mỏi mòn mà ước mong cũng như vầng trăng kia cứ khuyết chưa tròn. Vậy thì biết đến bao giờ trăng mới tròn, hỡi trời !
Tĩnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình không đến nỗi tuyệt vọng. Niềm tin của nữ sĩ vẫn còn, trước hết là tin ở lòng mình, sức mình. Lời dạy của trời đất sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở ngay trong rêu trong đá:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mấy, đá mấy hòn.
Rêu yếu ớt là thế mà từng đám, từng đám vẫn tung sức sống xiên ngang mặt đất đón ánh mặt trời. Đá im lìm là vậy mà hòn nọ tảng kia như đua nhau đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Cách đặt câu. đảo ngược đưa tính từ lên trước đã nhấn mạnh sức sống bất diệt của thiên nhiên. Mình là con người nên đâu có thể dễ dàng biến thành gỗ đá được?!
Con người cô độc, bất hạnh trong thời điểm đó, không gian đó dường như chợt bừng tĩnh, muốn làm theo rêu theo đá, xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì ngăn trở, ràng buộc, giam hãm, huỷ hoại thân phận mình, cuộc đời mình. Khổ nỗi, thực tế xã hội với bao dối trá, lạnh nhạt, chưa kể áp bức, bất công… vẫn nhơn nhơn còn đó. Mà trái tim luôn rạo rực cảm xúc của nữ sĩ đâu có chịu im tiếng. Nó có nhu cầu cấp thiết là được bày tỏ và chia sẻ:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Ngày tháng cứ tuần tự trôi qua. Xuân đi xuân lại lại theo nhịp tuần hoàn của đất trời, nhưng trước đôi mắt đầy tâm trạng của nữ sĩ thì nó lại như một sự cố tình trêu ngươi, vì mùa xuân của đời người chỉ có qua đi mà không bao giờ trở lại. Vậy thì có đáng buồn, đáng chán hay không? Ngẫm đến mình thì tuổi xuân trôi qua đã lâu, tình thì chỉ còn một mảnh. Cụ thể hoá tình yêu đến như thế thì quả là nữ sĩ không chỉ chán chường mà còn ngao ngán đến cực độ. Tuy nhiên vẫn chưa phải là tuyệt vọng. Dẫu tình yêu, tình đời chĩ còn một mảnh tí con con nhưng nữ sĩ vẫn muốn ,tiếp tục đem san sẻ với mong ước chân thành là để cho nhân tình thế thái đỡ xanh như lá, bạc như vôi. Đọc kĩ câu thơ, ta nghe như nỗi hờn giận, đau xót thấm đến tận chân tơ kẽ tóc, đến từng tế bào nhưng nữ sĩ vẫn không nguôi hi vọng.
Bài thơ Kể nỗi lòng in đậm dấu ấn cá tính và phong cách thơ Xuân Hương. Đúng là bài thơ trĩu nặng một nỗi buồn nhưng không hể bi lụy. Cốt cách cứng cỏi, tâm hổn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vượt qua bao bất hạnh của cuộc đời. Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa lồ tiếng lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở ấy- Dù buồn đến đâu thì nữ sĩ vẫn đắm say, thiết tha với cuộc sống. Đó là điều cốt lõi rất đáng trân trọng của Hồ Xuân Hương – “Bà chúa thơ Nôm”.
Phân tích bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương
Cập nhật lúc: 27/06/2014 07:50 am Danh mục: Ngữ văn lớp 11
Hồ Xuân Hương là nhà thơ lớn của dân tộc. Tuy sáng tác của bà để lại không nhiều, chủ yếu là những bài thơ Nôm truyền tụng và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí, song bà đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn của văn học Việt Nam với một phong cách thơ vô cùng độc đáo.
Phân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương (Bài 2)
Phân tích bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương
Phân tích bài thơ Tự tình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Bình giảng bài thơ Tự Tình II (Hồ Xuân Hương) : Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn …. Mảnh tình san sẻ tí con con.
Tự tình – Hồ Xuân Hương
Xem thêm: Tự Tình – Hồ Xuân Hương Học trực tuyến Môn Văn học
Chính vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tập trung đi sâu vào nghiên cứu về sự đóng góp của bà cho thơ ca trung đại Việt Nam. Hoàng Hữu Yên cho rằng: Thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất; Xuân Diệu lại đánh giá Hồ Xuân Hương như là một vị chúa thơ Nôm (…) Xuân Hương dùng thể thơ Đường luật thế mà ta không chút nào nghĩ rằng đó là một điệu thơ nhập nội, thơ Xuân Hương cứ nôm na bình dân tự nhiên (…) Xuân Hương thật xứng đáng là bà chúa thơ Nôm.
Trước hết ta tìm hiểu nhan đề của bài thơ Tự tình. Tự tình ở đây là tình cảm tự bộc lộ ra, đó chính là tâm trạng bộc bạch của chính người trong cuộc, đó là lời của tâm hồn, lời của con tim khao khát hạnh phúc cháy bỏng, đó là tiếng nói phẫn uất đau đớn xót xa… Đọc Xuân Hương thi tập ta thấy trong đó có một con người luôn luôn căm phẫn, luôn luôn phẫn nộ đối với chế độ phong kiến thối nát đương thời, đồng thời trong thơ của bà còn luôn luôn ca ngợi bênh vực cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhưng bên cạnh đó trong thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương luôn hiện lên một tâm trạng khao khát hạnh phúc, muốn bộc lộ cái tôi của mình. Cái tôi đó có lúc khao khát mãnh liệt nhưng cũng có lúc cô đơn uất hận xót xa, bế tắc bấp bênh, chới với giữa dòng đời.
Như trên đã nói, Tự tình là bài thơ Nôm được làm theo lối luật Đường. Bài thơ gồm 56 chữ, 8 câu chia thành 4 phần đề, thực, luận, kết, với niêm luật chặt chẽ, hàm súc mà cô đọng, lời ít mà ý nhiều. Hai câu đề của bài thơ hằn lên một nỗi niềm vừa cô quạnh, vừa bất bình ngao ngán cho một thân phận thiệt thòi quá lớn.
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Thông thường câu thơ đầu tiên của bài thơ thất ngôn bát cú có nhiệm vụ mở cửa thấy núi (Khai môn kiến sơn). Câu thơ mở đầu cho ta thấy phần nào chủ đề của bài thơ. Câu thơ đầu của bài thư này thoạt đầu dường như ta chưa thấy gì về sự báo hiệu cho chủ đề của nó. Nó chỉ là dấu hiệu của thời gian (tiếng gà văng vẳng gáy trên bom) mà ta thường thấy trong thơ ca xưa:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương.
Hay tiếng gà chuyển canh trong thơ Bác:
Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn.
Nhưng đằng sau cái tiếng gà gáy sáng văng vẳng áy ẩn sau một tâm trạng xót xa, buồn bã, cô đơn. Lúc này con người đã tình giấc đối diện với chính mình. Tiếng gà như một âm thanh chát chúa dội vào tâm trạng cô đơn của nữ sĩ khiến cho bà cất lên những lời đầy oán hận: Oán hận trông ra khắp mọi chòm. Hai câu thơ trên đã cho a thấy được phần nào tâm trạng đắng cay chua xót của nhà thơ. Nỗi bất hạnh đó còn được thể hiện sâu sắc hơn ở những câu thơ sau.
Hai câu thực nhà thơ đã diễn tả nỗi uất ức xót xa như chìm sâu vào trong tâm hồn nhà thơ đầy bất hạnh:
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu không đánh cớ sao om.
Khi phân tích hai câu thơ này có nhà nghiên cứu đã cho rằng ở đây Hồ Xuân Hương dùng biện pháp tu từ – mượn hình ảnh khách quan để vận vào mình để diễn tả nỗi giận hờn khó kìm lại được. Ở đây nhà thơ không chỉ mượn hình ảnh khách quan để vận vào mình mà chủ yếu nhằm lột tả đau đớn xót xa bế tắc của mình. Chuông sầu, mõ thảm là những thứ gợi lên cảm giác buồn đau cô đơn lạc lõng. Nhưng ở đây làm gì có khua có đánh thế mà nó vẫn vọng ra những tiếng nghe khô khốc thảm đạm làm sao. Vậy đó là những tiếng gì? Đó là tiếng của nỗi lòng, tiếng của sự bất hạnh giữa dòng đời. Cốc diễn tả âm thanh hay diễn tả nỗi lòng? Nghe nó chát chúa khô khốc ảm đạm làm sao! Tiếng chuông chùa không ngân lên vang vọng thành hơi mà vọng lại một tiếng nghe ảm đạm làm sao? Với từ om tác giả đã thể hiện rõ sự bế tắc xót xa trước cuộc đời đen bạc, bất công.
Như vậy qua bốn câu thơ đầu ta đã hiểu rõ được sự phẫn uất bất hạnh xót xa bế tắc trong cuộc đời của nữ sĩ tài hoa. Sự bất hạnh đó phần nào được lí giải ở hai câu luận của bài:
Trước nghe những tiếng thêm rầu rỉ
Sau giận vì chuyên để mõm mòm.
Hoá ra sự bất hạnh của bà chúa thơ Nôm là những tiếng nghe rầu rĩ. Đó là tiếng gì vậy? – Lời đồn đại, chuyện đơn sai chẳng? – Miệng thế gian biết đâu mà lường! Nhưng làm sao tránh khỏi? Những chuyện chẳng đâu vào đâu mà buồn phiền cứ dồn ập đến. Nói lên điều này chúng ta lại càng cảm thông hơn cho con người chịu nhiều bất hạnh thua thiệt hay xã hội xưa. Coi xã hội tàn nhẫn vô lương tâm đã vùi lấp con người. Hai tiếng thêm rầu rĩ nói lên sự chua cay chát chúa đó. Từ chuyện nhân thế chuyển về chuyển riêng tư sau giận vì cái duyên mõm mòm cũng không phải tại mình mà duyên phận cứ nổi nênh, bạc bẽo: Cảnh quá lứa lỡ thì chua chát biết bao!
Qua sáu câu thơ trên phần nào ta đã thấy được sự bất hạnh trong cuộc đời, nỗi chua cay thất vọng chán thường, ta hiểu được phần nào nguyên nhân gây nên những bất hạnh xót xa đó. Tất cả những cái đó ta có cảm tưởng như Xuân Hương không đứng vững nổi trước sóng gió xô đẩy của cuộc đời. Nhưng không, Hồ Xuân Hương vẫn hiên nang thách thức với một tư thế vô cùng ngạo nghễ.
Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom.
Đó mới đúng là Hồ Xuân Hương, mới đúng là con người luôn luôn đấu tranh cho mọi bất công ngang trái ở đời. Trong thơ Hồ Xuân Hương ta đã từng bắt gặp cá tính đó:
Khi chế giễu tên bại tướng
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bây nhiêu.
Khi phủ định một luật lệ bất công
Quản bao miệng thế đời chênh lệch
Không có nhưng mà có mới ngoan.
Có khi lại tự khẳng định một cách mạnh mẽ:
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cảng đo xem đất ngắn dài.
Đó là những lời trách cứ, thách thức với tư thế đối diện với mọi dư luận, mọi thế lực. Chính lòng tự tin đó đã làm nên tính cách sắc sảo độc đáo của cái tôi trong thơ Hồ Xuân Hương. Cái tôi đó dù đau đớn bất hạnh đến đâu vẫn chiến đấu thách thức đến cùng chống lại mọi dư luận bất công của xã hội. Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta cảm nhận sự bất hạnh cay đắng cho thân phận nữ sĩ đến đâu thì ta lại càng cảm phục trân trọng sự đấu tranh cho quyền được sống hạnh phúc chính đàng của con người đến đó. Bài thơ Tự tình chính là nét tiêu biểu cho hồn thơ trữ tình của Xuân Hương.
Phân tích bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương
Cập nhật lúc: 6/06/2015 09:30 am Danh mục: Ngữ văn lớp 11
Phân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương (Bài 2)
Phân tích bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương
Phân tích bài thơ Tự tình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Bình giảng bài thơ Tự Tình II (Hồ Xuân Hương) : Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn …. Mảnh tình san sẻ tí con con.
Tự tình – Hồ Xuân Hương
Xem thêm: Tự Tình – Hồ Xuân Hương Học trực tuyến Môn Văn học
Hồ Xuân Hương là nhà thơ lớn của dân tộc. Tuy sáng tác của bà để lại không nhiều, chủ yếu là những bài thơ Nôm truyền tụng và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí, song bà đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn của văn học Việt Nam với một phong cách thơ vô cùng độc đáo.
Chính vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tập trung đi sâu vào nghiên cứu về sự đóng góp của bà cho thơ ca trung đại Việt Nam. Hoàng Hữu Yên cho rằng: Thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất; Xuân Diệu lại đánh giá Hồ Xuân Hương như là một vị chúa thơ Nôm (…) Xuân Hương dùng thể thơ Đường luật thế mà ta không chút nào nghĩ rằng đó là một điệu thơ nhập nội, thơ Xuân Hương cứ nôm na bình dân tự nhiên (…) Xuân Hương thật xứng đáng là bà chúa thơ Nôm.
Trước hết ta tìm hiểu nhan đề của bài thơ Tự tình. Tự tình ở đây là tình cảm tự bộc lộ ra, đó chính là tâm trạng bộc bạch của chính người trong cuộc, đó là lời của tâm hồn, lời của con tim khao khát hạnh phúc cháy bỏng, đó là tiếng nói phẫn uất đau đớn xót xa… Đọc Xuân Hương thi tập ta thấy trong đó có một con người luôn luôn căm phẫn, luôn luôn phẫn nộ đối với chế độ phong kiến thối nát đương thời, đồng thời trong thơ của bà còn luôn luôn ca ngợi bênh vực cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhưng bên cạnh đó trong thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương luôn hiện lên một tâm trạng khao khát hạnh phúc, muốn bộc lộ cái tôi của mình. Cái tôi đó có lúc khao khát mãnh liệt nhưng cũng có lúc cô đơn uất hận xót xa, bế tắc bấp bênh, chới với giữa dòng đời.
Như trên đã nói, Tự tình là bài thơ Nôm được làm theo lối luật Đường. Bài thơ gồm 56 chữ, 8 câu chia thành 4 phần đề, thực, luận, kết, với niêm luật chặt chẽ, hàm súc mà cô đọng, lời ít mà ý nhiều. Hai câu đề của bài thơ hằn lên một nỗi niềm vừa cô quạnh, vừa bất bình ngao ngán cho một thân phận thiệt thòi quá lớn.
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Thông thường câu thơ đầu tiên của bài thơ thất ngôn bát cú có nhiệm vụ mở cửa thấy núi (Khai môn kiến sơn). Câu thơ mở đầu cho ta thấy phần nào chủ đề của bài thơ. Câu thơ đầu của bài thư này thoạt đầu dường như ta chưa thấy gì về sự báo hiệu cho chủ đề của nó. Nó chỉ là dấu hiệu của thời gian (tiếng gà văng vẳng gáy trên bom) mà ta thường thấy trong thơ ca xưa:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương.
Hay tiếng gà chuyển canh trong thơ Bác:
Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn.
Nhưng đằng sau cái tiếng gà gáy sáng văng vẳng áy ẩn sau một tâm trạng xót xa, buồn bã, cô đơn. Lúc này con người đã tình giấc đối diện với chính mình. Tiếng gà như một âm thanh chát chúa dội vào tâm trạng cô đơn của nữ sĩ khiến cho bà cất lên những lời đầy oán hận: Oán hận trông ra khắp mọi chòm. Hai câu thơ trên đã cho a thấy được phần nào tâm trạng đắng cay chua xót của nhà thơ. Nỗi bất hạnh đó còn được thể hiện sâu sắc hơn ở những câu thơ sau.
Hai câu thực nhà thơ đã diễn tả nỗi uất ức xót xa như chìm sâu vào trong tâm hồn nhà thơ đầy bất hạnh:
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu không đánh cớ sao om.
Khi phân tích hai câu thơ này có nhà nghiên cứu đã cho rằng ở đây Hồ Xuân Hương dùng biện pháp tu từ – mượn hình ảnh khách quan để vận vào mình để diễn tả nỗi giận hờn khó kìm lại được. Ở đây nhà thơ không chỉ mượn hình ảnh khách quan để vận vào mình mà chủ yếu nhằm lột tả đau đớn xót xa bế tắc của mình. Chuông sầu, mõ thảm là những thứ gợi lên cảm giác buồn đau cô đơn lạc lõng. Nhưng ở đây làm gì có khua có đánh thế mà nó vẫn vọng ra những tiếng nghe khô khốc thảm đạm làm sao. Vậy đó là những tiếng gì? Đó là tiếng của nỗi lòng, tiếng của sự bất hạnh giữa dòng đời. Cốc diễn tả âm thanh hay diễn tả nỗi lòng? Nghe nó chát chúa khô khốc ảm đạm làm sao! Tiếng chuông chùa không ngân lên vang vọng thành hơi mà vọng lại một tiếng nghe ảm đạm làm sao? Với từ om tác giả đã thể hiện rõ sự bế tắc xót xa trước cuộc đời đen bạc, bất công.
Như vậy qua bốn câu thơ đầu ta đã hiểu rõ được sự phẫn uất bất hạnh xót xa bế tắc trong cuộc đời của nữ sĩ tài hoa. Sự bất hạnh đó phần nào được lí giải ở hai câu luận của bài:
Trước nghe những tiếng thêm rầu rỉ
Sau giận vì chuyên để mõm mòm.
Hoá ra sự bất hạnh của bà chúa thơ Nôm là những tiếng nghe rầu rĩ. Đó là tiếng gì vậy? – Lời đồn đại, chuyện đơn sai chẳng? – Miệng thế gian biết đâu mà lường! Nhưng làm sao tránh khỏi? Những chuyện chẳng đâu vào đâu mà buồn phiền cứ dồn ập đến. Nói lên điều này chúng ta lại càng cảm thông hơn cho con người chịu nhiều bất hạnh thua thiệt hay xã hội xưa. Coi xã hội tàn nhẫn vô lương tâm đã vùi lấp con người. Hai tiếng thêm rầu rĩ nói lên sự chua cay chát chúa đó. Từ chuyện nhân thế chuyển về chuyển riêng tư sau giận vì cái duyên mõm mòm cũng không phải tại mình mà duyên phận cứ nổi nênh, bạc bẽo: Cảnh quá lứa lỡ thì chua chát biết bao!
Qua sáu câu thơ trên phần nào ta đã thấy được sự bất hạnh trong cuộc đời, nỗi chua cay thất vọng chán thường, ta hiểu được phần nào nguyên nhân gây nên những bất hạnh xót xa đó. Tất cả những cái đó ta có cảm tưởng như Xuân Hương không đứng vững nổi trước sóng gió xô đẩy của cuộc đời. Nhưng không, Hồ Xuân Hương vẫn hiên nang thách thức với một tư thế vô cùng ngạo nghễ.
Phân tích bài thơ “Tự tình” 2 của Hồ Xuân Hương
12:23:45-18/11/2013
83360
thoisuvtv3
Sơ sinh Cấp bậc
Số bài đăng 36
Một nhà phê bình văn chương nổi tiếng đã từng đưa ra một quy luật : “Văn chương, thơ ca là tấm gương phản chiếu của tâm hồn, là tiếng nói tình cảm của nhân loại, là những rung động của trái tim trước cuộc đời tươi đẹp. Những giá trị tinh thần mà văn chương, thơ ca đem lại, đã thoát khỏi cái quy luật băng hoại của thời gian, để trường tồn mãi mãi”. Không nằm ngoài quy luật đó, Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng muốn để lại cho hậu thế những tác phẩm hoàn mỹ, đạt đến sự xuất sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất là bài thơ Tự Tình thứ 2 – Là tiếng nói thương cảm đối với số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, đồng thời để cao vẻ đẹp và khát vọng sống của họ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Với thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được viết theo ngôn ngữ Nôm thuần Việt, bài thơ có lẽ đã được nữ sĩ viết về cuộc đời của chính bản thân mình, torng một phút suy tư. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang cảnh lạnh buồn, vắng lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của bà. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong Xã hội đương thời..
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hai câu thơ mở đầu trên còn được gọi là hai câu thơ ĐỀ trong thể thơ độc đáo này. Nhắm mắt suy nghĩ về cuộc sống, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya lạnh tanh hoà theo tiếng trống thông báo dồn dập, diễn tả sự qua đi nhanh chóng của thời gian. Đêm nay, người phụ nữ đang lẻ loi, cô độc một mình. Không còn một âm vang nào khác, không còn những tiếng ồn ào náo nhiệt của một ngày dài, chỉ còn tiếng trống canh cùng người phụ nữ. Từ “Trơ” – một trong những từ ngữ thể hiện sự chua chát của cuộc đời và sự đối lập giữa vẻ đẹp “Hồng nhan” – “Nước non”. Tại sao nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại đặt mình vào trong nhân vật với một không gian buồn bã, tàn lụi đến như vậy? Đối với riêng nữ sĩ khi đối mặt với cái thực tế đó, tâm trạng bà thế nào? Phải chăng bà muốn diễn tả thân phận không chỉ của riêng bà, mà còn là của những người phụ nữ khác trong cái quy luật cổ hủ, vô nhân đạo “Hồng nhan bạc phận” ? Hay cái thân phận phải đi làm “Vợ lẽ” – Không được tôn trọng cả về phẩm giá và tâm hồn ? Thật đớn đau …